Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015

Mối quan hệ giữa uy tín lãnh đạo, chừng độ thỏa mãn trong công tác và gắn kết đối với tổ chức của viên chức

Mối quan hệ giữa uy tín lãnh đạo, chừng độ thỏa mãn trong công tác và gắn kết đối với tổ chức của viên chức

Nghiên cứu xác định mối quan hệ giữa ba khái niệm: uy tín lãnh đạo, gắn kết đối với tổ chức và chừng độ thỏa mãn với công việc của CBNV và đưa ra báo động về mức độ gắn kết đối với tổ chức chưa cao của nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp Việt Nam bây chừ.

  Người lãnh đạo giữ vai trò chủ chốt đến kết quả hoạt động của tổ chức. Đề tài về ảnh hưởng của lãnh đạo đến các hành vi kết quả của viên chức đã thu hút sự quan hoài rộng rãi của Các bạn nghiên cứu lẫn những người làm thực tế. Thông qua 1 cuộc khảo sát bằng kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp với 281 CBNV đnag làm việc toàn thời gian trong các tổ chức, cơ quan trên địa bàn Tp.HCM, nghiên cứu được thực hành nhằm đo lường liên quan của uy tín lãnh đạo đến chừng độ thỏa mãn trong công tác và gắn kết đối với tổ chức của CBNV.

  Uy tín là một định nghĩa rộng, dù rằng uy tín được sử dụng rất nhiều trong các nghiên cứu về hành vi tổ chức, nhưng đa số các nhà nghiên cứu không đưa ra được định nghĩa rõ ràng về uy tín. Uy tín chỉ được ngầm hiểu chuẩn y bối cảnh, khuôn khổ trong đó khái niệm này được sử dụng. Hall etal, (2004) cho rằng "Uy tín lãnh đạo là sự xác định về nhận thức của mọi người về người lãnh đạo, có tác dụng làm giảm những bất trắc ảnh hưởng đến hành vi mai sau được trông mong của vị lãnh đạo đó". Người lãnh đạo có uy tín cao sẽ có mức độ tin cậy, tín nhiệm cao.

  Do mỗi cá nhân hoạt động trong môi trường xã hội rộng rãi, giữ các vai trò khác nhau trong môi trường xã hội rộng rãi, giữ các vai trò khác nhau trong hệ thống xã hội, uy tín cá nhân được mô tả ưng chuẩn những vai trò của người đó có trong hệ thống xã hội. Uy tín người lãnh đạo có thể được kiểm tra từ nhiều góc cạnh khác nhau: Từ quan điểm của chính phủ, của cộng đồng, các đối tượng ảnh hưởng đê lợi quyền trong tổ chức (viên chức, khách hàng, cổ đông .....). Trong nghiên cứu này, uy tín lãnh đạo được nghiên cứu từ ý kiến của viên chức, diễn tả thông qua ba tiêu thức: được sự tín nhiệm của cấp dưới, được cấp dưới nể phục; và được cấp dưới thừa nhận là nhà lãnh đạo giỏi.

Mức độ thỏa mãn trong công việc của viên chức. Vroom (Trích trong Price -1997) cho rằng sự thỏa mãn làm ức độ mà nhân sự có cảm nhận, định hướng hăng hái đối với việc làm trong tổ chức. Sự thỏa mãn đối với công việc của viên chức được định tức là đo lường theo cả 2 góc cạnh: thỏa mãn khái quát đối với công tác và thỏa mãn theo các nhân tố thành phần của công tác

 Gắn kết đối với tổ chức. Định nghĩa của Mowday et al (1979) được chấpn hận và được sử dụng nhiềun hất trong các nghiên cứu bây giờ, theo định nghĩa này gắn kết đối với tổ chức được xác định là sức mạnh của sự đồng nhất, của cá nhân với tổ chức, sự tham dự tích cực trong tổ chức và trung thành với tổ chức. Theo khái niệm này, gắn kết đối vớit ổ chức bao gồm 3 thành phần:

  - Sự đồng nhất :"có niềm tin mạnh mẽ và hài lòng mục đích cùng các giá trị của tổ chức"
  - Cố gắng: "tình nguyện cố gắng vì tổ chức"
  - Trung thành:"ý định hoặc ước mơ mạnh mẽ sẽ ở lại cùng tổ chức"

Uy tín lãnh đạo của CBNV cho thấy nếu lãnh đạo không có lỗi sống kiểu mẫu về đạo đức và nếu hiệu quả làm việc không tốt thì thật khó có thể có những CBNV trung thành, tận tâm hếtm ình vì cơ quan. Kết quả thích hợp với các ngiên cứu trước đây cho rằng lãnh đạo có tương quan chặt tới chừng độ thỏa mãn trong công việc và gắn kết đối với tổ chức của CBNV.

Một trong những duyên do quan trọng khiến CBNV chưa trung thành gắn kết, chưa nỗ lực hết mình vì tổ chức là do nhiều lãnh đọa thiếug ương mẫu về đạo đức cá nhân, laàm iệc chưa hiệu quả. Do vậy các tổ chức, doanh nghiệp cần kiên quyết thay thế những lãnh đạo không còn uy tín đối với CBNV.
Kỷ yếu ngày viên chức Việt Nam
PGS.TS è Kim Dung
TrườngcĐại học Kinh tế Tp Sài Gòn

Tại sao nhân viên nhà băng đua nhau bỏ việc để lập startup?

Hơn 1 nửa (khoảng 51%) nhân viên nhà băng tại châu Âu đang nghĩ đến việc đổi nghề theo một nghiên cứu mới công bố vào năm nay của đơn vị Option.



Trong tháng 2/2012, đối diện với tàn dư của khủng hoảng tín dụng các ngân hàng đã phải cắt giảm 230.000 việc làm. Stu Taylor - Giám đốc giao tiếp toàn cầu tại UBS Group AG có trụ sở ở London đã ngay tức thì nhận ra rằng sẽ tốt hơn nếu thôi việc.

Rốt cục, ông đã bỏ vị trí với mức lương 7 con số, hài lòng rủi ro và thành lập một doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ.

Taylor cùng 3 cộng sự rơi vào cảnh "không lương" và thành lập nên Algomi - một nền tảng quản lý việc bán trái phiếu dành cho các thương nhân, giám đốc quản trị quỹ và các nhà đầu tư.

3 năm sau đó, Stu nói rằng sự đánh đổi dù khó khăn giữa việc từ bỏ công tác lương cao để nhận lại một phần nhỏ so với số đó thật sự rất đáng giá. "Tôi thích những gì mình đang làm, rất khác biệt và quan yếu nó là của tôi".

Nhiều nhà băng trong đó có cả UBS, Royal Bank of Scotland Group và Deutsche Bank đều phải cắt giảm việc làm và đóng cửa một số mảng kinh doanh, đặc biệt là giao thiệp trái khoán. Điều này khiến các cựu viên chức ngân hàng lần lượt bỏ lĩnh vực tài chính và sử dụng kinh nghiệm của họ để dấn thân vào các lĩnh vực như công nghệ tài chính.

Tận dụng sự thay đổi về môi trường pháp lý, họ thành lập nên những công ty cung cấp nền móng quản trị rủi ro, phân tách dữ liệu, giao dịch - những công việc trước đây đều do con người thực hành.

"7 trong số 10 cuộc đối thoại với các nhân viên ngân hàng đầu tư của tôi gần đây đều kết thúc bằng lời đề nghị lưu tâm giới thiệu cho họ một công việc trong lĩnh vực công nghệ", Eric Anderson - chủ tịch công ty thực hành công nghệ tài chính Egon Zehnder International có trụ sở tại Atlanta nói. "Đây là một điều chưa từng xảy ra cách đây 5 năm".

Ít người môi giới

Theo Cục thống kê lao động Mỹ, Bắc Mỹ hiện có ít hơn 211.500 viên chức môi giới trái khoán, trong khi đó, con số rưa rứa trong lĩnh vực công nghệ phần mềm hay an ninh mạng lên tới 500.000. Thậm chí, rất nhiều vị trí trong số này không tồn tại khoảng 1 thập kỷ trước đó. Nhận định mới đây của McKinsey & Co vào tháng 12 cũng nói rằng, Mỹ hiện có hơn 12.000 đơn vị khởi nghiệp tập hợp phục vụ các doanh nghiệp nhà băng.

Tổng cộng theo dữ liệu của Bloomberg, 4 ngân hàng lớn nhất của Mỹ và Anh đã cắt giảm tới 350.000 việc làm kể từ 2008. Báo cáo hàng quý của Bloomberg Global Poll phát hành vào tháng 1 vừa qua cho thấy 83% người khảo sát đều nhận định ngành nhà băng sẽ tiếp tục cắt giảm nhiều việc làm hơn nữa trong năm nay.

Theo nghĩ suy của Anderson thì: "Các ngân hàng đầu tư hiện đang di chuyển chậm chạp đến mức chúng ta có thể đạp đổ nó bất cứ lúc nào".

Chuyển đổi thị trường

Mark Whitcroft - một công dân Anh 34 tuổi đã bỏ vị trí giám đốc mảng kinh doanh trái phiếu của nhà băng Deutsche New York để trở nên lãnh đạo của Illuminate Finance Management - một đơn vị đầu tư giả mạo hiểm chuyên cung cấp vốn cho những dự án khởi nghiệp trong lĩnh vực tài chính công nghệ. Mục đích lớn nhất được đề trên website của doanh nghiệp này là: "Chuyển đổi thị trường tài chính".

"Với tôi, đây là thời cơ để thay đổi sự nghiệp. Sẽ tốt hơn nếu có thời cơ tạo ra sức thúc đẩy tới một thứ hoàn toàn mới thay vì tiếp tục cống hiến cho những gì đang tồn tại ".

Nhà băng Deutsche đã cắt giảm lương và thu hẹp mảng kinh doanh tín dụng để tụ tập cho chiến lược dây lưng buộc bụng. 10 tháng sau khi Taylor rời UBS, ngân hàng Thụy Sỹ này đã tuyên bố kế hoạch cắt giảm 10.000 việc làm và thu hẹp một số mảng kinh doanh thương mại vốn phải chịu rất nhiều quy định khắt khe.

Cân nhắc đổi nghề

Hơn 1 nửa (khoảng 51%) nhân sự tại các nhà băng châu Âu đang nghĩ đến việc đổi nghề theo một nghiên cứu mới công bố vào năm nay của đơn vị Option. Khoảng 42% nhân viên tại các quỹ đầu tư có tài sản trên 5 tỷ USD cũng đang có cùng suy nghĩ này.

86% CEO ngân hàng được khảo sát bởi PwC đều cho rằng, nhiều cải tiến về công nghệ đã sẵn sàng mang đến những tác động mạnh mẽ tới hệ thống ngân hàng. Trong ngày mai, hơn 30% doanh thu của các ngân hàng châu Âu sẽ đến từ những giao thiệp kỹ thuật số. Điều này đồng nghĩa với việc con người rất có thể sẽ được thay thế bằng máy móc.

Thậm chí, Anthony Lim - một chuyên viên tham vấn an ninh đến từ cơ quan International Information System Security Certification tại Singapore cho biết: "Bất kể quá trình nào có thể đong đếm hay hệ thống máy móc được, nó sẽ sớm được làm tự động".

Bản thân các nhà băng và công ty bảo mật đã chi khoảng 488 tỷ USD vào năm ngoái cho công nghệ thông báo, theo nghiên cứu của Gartner. Con số này có thể lên mức 500 tỷ USD trong năm nay, nhất là sau hàng loạt vụ rò rỉ thông báo do hacker xảy ra thời kì gần đây.

"Tiến bộ về công nghệ sẽ đổi thay mọi thứ. Đây sẽ thời kì tồi tệ nhất với những người chỉ có kỹ năng cơ bản bởi máy tính, robot và những công nghệ kỹ thuật số khác sẽ đảm đang tốt hơn". Xu hướng này đang xuất hiện trên thế giới.

Theo nghiên cứu mới của công ty đầu tư mạo hiểm CB Insights có trụ sở tại New York, xu hướng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ tài chính đã tăng gấp 5 lần kể từ năm 2010 lên mức 13,7 tỷ USD. Những cựu nhân viên ngân hàng như Taylor coi bỏ việc như một thương vụ đầu tư. "Dù mất mát về tài chính nhưng đổi lại tôi được làm những gì mình yêu thích. Hy vọng rằng, nó có thể tạo ra lợi nhuận trong mai sau".

Theo Trí Thức Trẻ

Thứ Ba, 8 tháng 9, 2015

Can cu dong Bảo hiểm xã hội - HDLD hay thang bang luong ?

Sưu tầm:  chỉ dẫn viết cv cho sinh viên mới ra trường
Can cu dong Bảo hiểm xã hội - HDLD hay thang bang luong ?

Dear các anh, chị và Anh chị em.

Bây giờ, mình đang gặp vấn đế thúc đẩy đến căn cứ đóng Bảo hiểm xã hội (chi tiết như bên dưới), nhờ mọi người cho mình góp ý:

Cấu trúc lương của bên mình: Lương gộp = lương căn bản + lương năng suất + Phụ cấp

Trong đó: Phụ cấp gồm: Tiền ăn + tiền xăng + tiền điện thoại.
Lương năng suất: viên chức nhận 100% mỗi tháng

Đầu tháng 1/2014, bên mình xây dựng thang bảng lương căn bản và nộp Phòng lao động quận. Sau khi được approved thì mình làm thông báo điều chỉnh mức đóng BHXH (mức đóng mới căn cứ trên giao kèo lao động gồm Lương cơ bản và lương hiệu suất) cho cơ quan BHXH quận và kèm theo bảng photo Thang bảng lương.

Tổ chức và và đơn vị Bảo hiểm xã hội quận vẫn thực hành việc nộp Bảo hiểm xã hội, BHTN, BHTN và các khoản trợ cấp Bảo hiểm xã hội khác (như ốm dau, thai sản) dựa trên mức lương trên HĐLĐ và không có phát sinh gì.

Tháng 06 vừa rồi bên mình có 1 viên chức nữ sinh con và bên mình làm giấy tờ trợ cấp thai sản, Phòng chế độ của công ty BHXH quận liên hệ với bên mình yêu cầu cung cấp: Thang bảng lương 2013, 2014, quyết định tăng lương của viên chức vừa inh con và Bảng thông tin điều chỉnh mức đóng cả cơ quan tháng 01/2014 và HĐLĐ (bên mình cung cấp đầy đủ), đến tháng cuối tháng 08 mới rồi họ thông báo đến công ty là hồ sơ cần được coi xét lại và chuyển sang bộ phận Thu của doanh nghiệp Bảo hiểm xã hội quận để đối chiếu.

Hôm vừa rồi, 1 cán bộ Thu của cơ quan BHXH quận có can dự với nhân sự C&B bên mình bảo là doanh nghiệp BHXH đề xuất cơ quan đóng mức như Thang bảng lương đã đăng ký. Nên yêu cầu đơn vị điều chỉnh lại mức đóng toàn cơ quan từ đầu năm đến nay và trả lại các chế độ đã được giải quyết.

Thông báo này, bạn C&B bên mình báo lại, mình chưa làm việc trức tiếp với bên công ty Bảo hiểm xã hội quận vì muốn tìm hiểu thật kỹ trước khi làm việc với bên họ.

Theo quy định tại Điều 94 của luật BHXH 2006 thì:

2. Đối với người lao động đóng BHXH theo chế độ lương bổng do người sử dụng lao động quyết định thì lương bổng, tiền công tháng đóng BHXH là mức lương bổng, tiền công ghi trong hiệp đồng lao động.

Và theo quy định tại Điều 90 của Bộ luật lao động 2012 thì:

lương thuởng bao gồm mức lương theo công tác hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác.

Mặt khác, Một văn bản khác có đề cập đến thang bảng lương có quy định:
Trên cơ sở các nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương và định mức cần lao do Chính phủ quy định, người sử dụng cần lao có nghĩa vụ xây dựng thang lương, bảng lương, định mức cần lao làm cơ sở để tuyển dụng, sử dụng lao động, thỏa thuận mức lương ghi trong hiệp đồng lao động và trả lương cho người cần lao.

Mình dự định, sẽ làm việc/ giải trình với tổ chức Bảo hiểm xã hội quận dựa trên quy định của Bộ luật lao động 2012 và luật Bảo hiểm xã hội 2006 để tiếp tục đóng BH theo hợp đồng cần lao. Nếu họ không đồng ý thì sẽ nộp lại thang bảng lương khác (gồm cả lương cơ bản và lương năng suất) cho Phòng cần lao quận.

Các anh, chị và Cả nhà góp ý giúp mình nhé!

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Kỹ Năng Lãnh Đạo Linh Hoạt Theo cảnh huống - HRM

Kỹ Năng Lãnh Đạo Linh Hoạt Theo tình huống

Thế nào là lãnh đạo theo tình huống?

Bạn là một nhà quản lý? Bạn đang lựa chọn cho mình một phong cách quản trị hoàn hảo để ứng dụng với tất cả các nhân sự của mình? Đừng phí công, không có phong cách nào tốt nhất. Thực tiễn, việc quản trị hiệu quả đòi hỏi nhiều phong cách quản trị khác nhau.

Lãnh đạo theo cảnh huống bao gồm việc sử dụng bốn phong cách quản lý khác nhau:

   Quản lý kiểu hướng dẫn
   quản lý kiểu tham vấn hay kiểu "ông bầu"
   quản trị kiểu tương trợ
   Phong cách phân cấp hay uỷ quyền

1. Quản trị kiểu chỉ dẫn

Nhà quản lý sẽ hướng dẫn nhân sự làm thế nào để hoàn tất công tác, đánh giá chặt chẽ hoạt động của nhân sự và tự mình đưa ra hồ hết quyết định.

Đây là phong cách phù hợp nhất để quản lý nhân sự mới vào nghề hoặc đối với những người thực hiện công việc không tốt.

Ngoài ra, nếu nhà quản trị chỉ sử dụng một phong cách này thì sẽ trở nên tiểu tiết, độc quyền.

2. Quản lý kiểu tư vấn hay kiểu "ông bầu”

Nhà quản lý liên tiếp đưa ra các định hướng và buộc nhân sự cùng tham gia giải quyết vấn đề và tham gia vào quá trình ra quyết định.

Để thực hiện được điều này, cần lôi kéo quan điểm của viên chức, giải đáp các câu hỏi được nêu ra và bộc lộ sự hứng thú bàn luận công tác với từng cá nhân.

Phong cách này ăn nhập khi viên chức không còn là người mới đối với công việc nhưng cũng chưa đủ khả năng hoặc sự tự tín về khả năng thực hiện công tác của mình.

3. Quản lý kiểu hỗ trợ

Nhà quản trị sử dụng phong cách này khi nhân viên của anh ta đã có khả năng thực hành một công tác được giao nhưng còn thiếu tự tín.

Theo phong cách này, nhà quản lý là nơi để viên chức nêu ra những lo ngại và để đàm luận về những khó khăn.

Ngoại giả, thay vì giải quyết hộ, nhà quản trị chỉ hỗ trợ họ. Làm như vậy sẽ tăng cường tính độc lập và sự tự tin của viên chức.

4. Phong cách phân cấp hay uỷ quyền

Sử dụng đối với viên chức có cả kỹ năng và sự tự tín trong việc xử lý công việc.

Ngoài ra, nếu bạn sử dụng phong cách này trước khi nhân viên của bạn sẵn sàng cho công việc thì họ có thể sẽ cảm thấy rằng, bạn đã bỏ rơi họ.

Các yêu cầu với lãnh đạo tình huống:

   Liên tiếp đổi thay phong cách quản trị để phù hợp với sự phát triển về kỹ năng, kinh nghiệm và sự tự tin của nhân sự. Nếu không sẽ khiến nhân sự không thể phát triển được.
   Sẵn sàng sử dụng các phong cách khác nhau với cùng một người bởi trong khi anh ta có thể tự tin và có khả năng thực hiện một việc này thì một việc mới giao cho anh ta sẽ lại đòi hỏi một phong cách quản trị khác.
   Luôn luôn thực hành quản trị với mục đích là làm cho nhân viên của mình phát triển kỹ năng và tăng tính độc lập hơn.
   Lãnh đạo theo tình huống đã trở nên một cách tiếp cận phổ thông trong quản trị con người bởi nó tính đến sự khác biệt giữa các nhân sự. Học cách tiếp cận này, công việc của bạn sẽ lưu loát hơn vì viên chức của bạn sẽ học được cách tự quản trị mình.

Các nhân tố thúc đẩy tới phong cách lãnh đạo:

   Thời kì là bao nhiêu?
   Các mối quan hệ được dựa trên sự tôn trọng và tin tưởng hay dựa trên sự thiếu tôn trọng?
   Ai là người nắm giữ thông báo - bạn, các nhân sự, hay cả hai?
   Các viên chức được huấn luyện ra sao và bạn hiểu rõ các nhiệm vụ như thế nào?
   Các mâu thuẫn nội bộ
   chừng độ áp lực
   Kiểu nhiệm vụ. Đó là kiểu cấu trúc, phi cấu trúc, phức tạp, hay đơn giản?
   quy tắc hay các quy trình thủ tục được thiết lập

Theo kynang.Edu.Vn

Nhịn nhục cho sếp “dê” vì lương cao!

Nhiều lúc tôi nghĩ, viết đơn xin nghỉ việc để thoát cảnh bị sếp "dê", nhưng thật sự vì miếng cơm manh áo, vì đứa con nhỏ tôi lại đành câm nín.

Tôi ra trường với tấm bằng cao đẳng, thời buổi này nói thật bằng đại học, cao học còn khó kiếm việc nữa là tấm bằng cao đẳng như tôi, nhưng thật sự khi thi đại học tôi chỉ đỗ cao đẳng chẳng thể nào đỗ được đại học nên đành ngùi ngùi đồng ý học đến đó. Hơn nữa, gia đình nghèo cũng không có nhiều tiền nong để tôi học tiếp lên đại học, đành cầm tấm bằng cao đẳng đi xin việc.

Do vẻ ngoài xinh xắn, nước da trắng và thân hình thon tôi được nhận vào làm nhân viên lễ tân tại một cơ quan liên doanh với lương thưởng ở mức khá. Thật sự tôi cũng chỉ mong muốn có được một công việc ổn định để có thu nhập nuôi con chứ tôi cũng không nghĩ lên địa vị gì cả. Nhưng thế cục này đâu như mong muốn, tôi đâu ngờ mình lọt vào tầm mắt của vị sếp dê xồm ngay từ vòng đầu phỏng vấn.

Ban sơ khi tôi mới vào làm việc đã được cắt cử thu vén phòng riêng của sếp. Tôi cũng hơi lạ, vì việc này đáng lẽ là của bộ phận lao công làm nhưng không hiểu sao sếp lại phân công tôi, nhưng vì mới được nhận vào làm nên tôi vẫn làm nồng hậu mà không hề thắc mắc.

Ban đầu tôi cũng khá nhút nhát, sợ sệt khi bước chân vào phòng làm việc của sếp, nhưng sếp thường mìm cười thân thiện với tôi và hỏi han cuộc sống của tôi khiến tôi cảm thấy thoải mái hơn. Tưởng rằng sếp thật sự quan tâm tới nhân viên nên tôi cũng thực thà kể chuyện mình làm mẹ đơn thân cho sếp nghe, sếp có vẻ thông cảm, cuối tháng có thưởng riêng cho tôi, tôi không nhận sếp bảo coi như cho cháu ở nhà thêm hộp sữa.

Nhưng kể từ dạo đó, tôi mới nhận ra sếp thường xuyên nhìn mình với ánh mắt khác, có vẻ thèm muốn hơn. Tôi thật sự không muốn điều tiếng xảy ra, kèm theo việc mang tai mang tiếng phá đổ vỡ hạnh phúc gia đình nhà người khác nên khôn cùng tránh né. Ngoài ra, tôi không thể tránh được hết, một hôm đang lúi cúp lau chùi bàn ghế, tự nhiên có người bóp mạnh vào vòng ba mình, tôi quay ra thì thấy sếp cười nhăn nhở. Tôi vội vàng đặt khăn lau xuống rồi chạy vội ra ngoài. Suốt buổi hôm đó, tôi ngơm ngớp lo sợ "bị" sếp gọi vào phòng, nhưng may thay có nhẽ sếp bận việc nên không gọi tôi vào.

Mấy ngày hôm sau, tôi thay đổi lịch đến sớm quét dọn để tránh đụng mặt sếp, thế nhưng cũng chỉ được một thời gian. Sáng đó, tôi đến sớm như mọi hôm thì ông ta đã ở trong phòng từ bao giờ, tôi giật mình khi thấy sếp ngồi ở đó nhưng không dám quay ra bởi phòng chưa được thu vén, tôi cố tình mở toang cửa phòng làm việc để tránh những hành động không hay của sếp.

Đang lau chùi bàn ghế thì sếp đứng lên đi ra ngoài, tôi thở phào nhẹ nhàng, không ngờ một lát sau sếp trở vào và "một thể tay" đóng sầm cửa lại, ấn nút khóa bên trong. Tôi chưa kịp định thần thì sếp lại gần ôm chầm lấy tôi hôn hít, tôi vội vàng đẩy sếp ra thì ông ta nói thầm: "cho anh, em sẽ có tất cả". Tôi hốt hoảng chạy vội ra khỏi phòng.

Sau hôm ấy, tôi đã đợi sếp về để quay lại cơ quan dọn dẹp phòng sếp, tôi vẫn muốn tránh ông ta. Nhưng hình như tôi càng tránh sếp, sếp càng có cảm hứng với tôi thì phải, ánh mắt sếp nhìn tôi có lúc như muốn ăn tươi nuốt tươi ngay tức khắc nhưng có những lúc lại dịu dàng như đang "chăn thỏ" vậy.

Buổi chiều hôm ấy, đang dọn phòng cho sếp, bất ngờ sếp đi vào, đóng cửa khóa ngược lại. Tôi run sợ, sếp lại gần nhìn tôi như thể một con hổ đang nhìn con mồi của mình vậy. Mặc tôi run sợ, sếp từ từ một tay ghì chặt lấy tôi, một tay quờ quạng rờ mó những nơi nhạy cảm, tôi vùng vằng nhưng không sao thoát được khỏi bàn tay khỏe mạnh của sếp. May thay, đúng lúc này điện thoại của sếp đổ chuông, nhân lúc ấy tôi vội vàng chạy ra khỏi phòng.

Tôi mới vào cơ quan làm việc hơn 5 tháng nay, công nhận lương thưởng nhiều thật, cuộc sống của hai mẹ con tôi cũng ổn hơn rất nhiều, tôi không muốn phải bỏ công tác này. Tuy nhiên, sếp cứ "dê" như này khiến tôi rất sợ, giờ đây tôi chỉ dọn phòng khi còn có đứa ở đơn vị, khi đó sếp có dê cũng chỉ ấp ôm hôn, sờ mó mà không đi quá giới hạn được.

Thỉnh thoảng, sếp vẫn gọi tôi vào khi thì pha cốc trà, khi thì lấy giấy bút, mỗi lần vào lại một lần sếp rờ mó, ôm. Tôi rất khó chịu nhưng vì mức lương thưởng hàng tháng tôi đành yên ổn yên. Nhưng thật sự tôi cảm thấy rất điếm nhục, rất lo sợ... Giờ tôi chẳng biết phải làm thế nào nữa, nhiều khi tôi nghĩ rằng viết đơn xin thôi việc để thoát cảnh bị sếp "dê", nhưng thật sự vì miếng cơm manh áo, vì đứa con nhỏ tôi lại đành câm nín..

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2015

Gian truân quản lý viên chức có vấn đề

Gian truân quản lý viên chức có vấn đề

Có nhẽ một trong những công tác khó khăn nhất của nhà quản trị là ứng phó với những nhân sự “có vấn đề”. Cho dù đó là vấn đề gì - sự chậm trễ về thời gian, thái độ xử sự tuỳ tiện thể hay thực thi công việc thiếu hiệu quả - thì nhà quản lý cũng cần có phản ứng ngay lập tức. Nếu để vấn đề tiếp tục kéo dài hay tiến triển, kiên cố hậu quả sẽ khó lường, bởi nó gây một thúc đẩy bị động tới bạn, tới toàn thể viên chức, thậm chí làm xấu đi hình ảnh cũng như văn hóa đơn vị bạn.

Bước trước nhất để ứng phó với một viên chức “có vấn đề” là nhận ra các rắc rối của anh ta. Một trong những viên chức của bạn có thể liên tiếp đi làm muộn giờ hay dành quá nhiều thời kì để tán chuyện với đồng nghiệp, thay vì cần phải tụ hợp vào công tác của mình. Những nhân sự này có thể thiếu những kỹ năng cần thiết để hoàn thành công việc, cũng có thể anh ta đang có sự xung khắc, dị đồng với các viên chức khác hay với ban lãnh đạo, hoặc anh ta vi phạm nội quy, nguyên tắc chung, hay coi thường các chính sách của doanh nghiệp…

Không ít lần, một cuộc chuyện trò thân mật và đơn giản với nhân sự sẽ giúp bạn hoá giải các vấn đề phát sinh, chẳng hạn như việc nhân viên đôi khi đi làm muộn, hay có một hành vi không thích hợp…. Tuy nhiên, những kiểu tư duy đã thành thói quen hay vấn đề thiếu hiệu quả công việc sẽ cần phải có nhiều cuộc hội thoại hơn giữa bạn và nhân sự.

Có hai cách hành động mà bạn có thể áp dụng đối với một nhân viên “có vấn đề”. Cách trước nhất và cũng là cách thức hiển nhiên nhất là đưa viên chức đó đi vào năn nỉ nếp, kỷ luật. Việc này có thể bao gồm nhiều nội dung như đưa ra những cảnh báo bằng văn bản, phân công nhiệm vụ khác, hay điều động nhân sự sang phòng ban khác. Hành động này thích hợp với những vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, chẳng hạn như những vấn đề đang diễn ra ảnh hưởng đến việc vi phạm, khinh thường các quy định, nội quy của công ty.

Sự chọn lựa thứ hai đó là huấn luyện và giáo dục. Cách thức này thường là sự lựa chọn tối ưu đối với những vi phạm lần đầu, khi hiệu quả công tác không như mong muốn, hay các viên chức thực thi nhiệm vụ thiếu tính chuyên nghiệp. Việc tập huấn đề xuất nhà quản trị cần làm việc trực tiếp với các nhân sự đó, hoặc cắt cử một viên chức khác làm việc cùng với viên chức này để giúp họ khắc phục những khiếm khuyết. Còn giáo dục là đưa ra cho viên chức những ý kiến phản hồi và giải pháp giúp cải thiện công việc của họ. Nhìn chung, cả đào tạo lẫn giáo dục đều đòi hỏi tính kiên nhẫn và thời gian của nhà quản lý, nhưng kết quả mà nó mang lại là giúp giải quyết các vấn đề, uẩn khúc đang tồn tại.

Để quản lý thành công các nhân viên đặc biệt này, bạn cần chóng vánh nhận ra và nắm bắt nguyên cớ sâu xa của vấn đề. Dưới đây là một số hiện tượng thường phát sinh trong đội ngũ viên chức của bạn cùng các cách thức tranh đấu với chúng:

1. Làm việc thiếu hiệu quả

Nguyên do thực sự của việc hoạt động thiếu hiệu quả không phải lúc nào cũng là do nhân viên không có đủ kỹ năng cần thiết. Sự thiếu công ty một cách khoa học, hay tính cách tuỳ luôn tiện cũng có thể là căn nguyên khiến cho những việc làm của nhân sự không đem lại kết quả như mong đợi. Thông thường, những lề thói này có thể được chỉnh sửa bằng sự chỉ dẫn, chỉ bảo phù hợp. Nếu khó khăn của nhân viên bắt nguồn từ việc họ thiếu các kỹ năng chuyên môn cấp thiết, thì bạn cần quan hoài đến việc   đào tạo   và tập huấn.

2. Không tương xứng với công tác

Trong một số trường hợp, vấn đề của nhân viên có thể phát sinh do các kỹ năng của họ không ăn nhập với nhiệm vụ được cắt cử hay các công tác thông thường. Lúc này, bạn nên tổ chức những khoá học bổ sung. Bạn cũng có thể phân công nhiệm vụ khác cho nhân viên, và đây xem ra là sự chọn lọc phù hợp nhất.

3. Tuỳ một thể trong công tác

Những sơ sót và sự tuỳ nhân tiện luôn rất dễ dàng phát hiện ra. Khi bạn để ý thấy một viên chức phạm phải sai lầm, hãy chỉ ra các lỗi đó và giám sát công việc của họ kỹ lưỡng hơn. Nếu tình trạng này vẫn tiếp tục lặp lại, bạn hãy trò chuyện với nhân viên và chỉ ra các sai sót tiêu biểu và nghiêm trọng nhất trong công việc của họ. Ngoài ra, bạn cần phải luôn biểu đạt một thái độ nhã ý và giao hội vào tầm quan trọng của những đóng góp mà viên chức đã đem lại cho doanh nghiệp. Chắc hẳn bạn không muốn la rầy nhân viên, mà bạn muốn đưa ra những phê bình mang tính xây dựng.

4. Hành vi và thái độ quấy phá

Hãy cố gắng để nhân viên đứng về phía bạn. Đưa nhân sự ra ngoài dùng bữa trưa hay uống một tách cà phê, nhân đó tạo cho nhân sự này cơ hội để diễn đạt hết nghĩ suy và lo lắng của mình về những điều đang gây rắc rối cho họ, làm cho họ chẳng thể thực thi công việc theo đề xuất. Trong trường hợp này rất có thể sẽ là vấn đề cá nhân hay cảm giác tự ti vì viên chức này cho rằng mình không được coi trọng trong tổ chức.

Nếu vấn đề đích thực nghiêm trọng, bạn hãy tổ chức một cuộc họp kín với nhân sự và cho họ thấy những chứng cứ về thái độ, hành vi sai trái của họ. Sau đó, bàn bạc về những hệ quả mà họ có thể phải đối mặt như chịu trách nhiệm hành chính, giáng cấp hay sa thải, nếu anh ta không chịu đổi thay và mọi việc vẫn tiếp diễn như trước.

Khi quản lý một viên chức “có vấn đề”, sẽ rất có ích nếu bạn ghi chép lại mọi phiền toái đó và lưu giấy tờ tất cả các buổi họp cùng với những hành động đã tiến hành. Nhân viên thường quan hoài đến các cảnh báo bằng văn bản với thái độ nghiêm túc hơn là những khiển trách bằng lời nói. Việc xây dựng một hệ thống văn bản giấy tờ lưu giữ các vấn đề và sự kiện, vì vậy, hết sức thiết yếu, đặc biệt khi bạn cảm thấy chẳng thể chịu đựng được thêm và quyết định… thải hồi nhân viên.

(Quantri.Vn)

Trả   lương   theo phong cách Walmart - ai được, ai hại?

Trong kinh doanh, hạ giá để cạnh tranh hoặc để chiếm thị trường trong một thời kì nào đó rồi trở lại giá thường ngày là một trong những “chiến thuật” dường như công ty nào cũng đã áp dụng một đôi lần trong thời kỳ mới thành lập hoặc lúc cần mở mang thị trường.

Còn nếu cạnh tranh theo kiểu bất cứ lúc nào cũng chỉ dùng hình thức lấy giá rẻ làm “ưu tiên” thường không mang lợi nhuận cho đơn vị, cho nhân sự và cho nền kinh tế tổng thể.

Sự phát triển của hãng Wal-Mart, tổ chức bán buôn lớn hàng đầu trên thế giới và đơn vị Sams Club, chi nhánh của Wal-Mart, chuyên bán hàng theo kiểu tồn kho khiến rất nhiều hãng bán buôn nhỏ phải đóng cửa vì không thể cạnh tranh giá cả. Sam’s Club này đạt được thành công phần nhiều nhờ trả lương viên chức thấp.

Ngoại giả, ngoài việc trả lương bổng thấp Wal-Mart có quá trình đối xử với nhân sự không mấy hậu hĩnh và không cung cấp những phúc lợi xứng đáng cho viên chức so với đối thủ hàng đầu là tập đoàn Costco.

Ðầu tháng ba vừa qua, Costco đã chứng tỏ việc trả lương hậu và tăng phúc lợi cho nhân sự mang về cho Costco lợi nhuận nhiều hơn với báo cáo lợi tức tăng 25% và số sản phẩm bán ra tăng 14% trong quý ba 2003. Tuy vậy tại thị trường chứng khoán cổ phiếu chứng khoán của Costco lại mất giá đến 4% vì giới đầu tư lo ngại phí tổn điều hành, trong đó bao gồm lương lậu và phúc lợi trả nhân viên, sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của tổ chức bán hàng tồn kho này.

Liệu suy nghĩ của giới phân tích thị trường chứng khoán đúng hay đường lối điều hành của Costco là đúng?

Trả lương cao mang lợi cho viên chức và nền kinh tế:

Các nhà đầu tư tại thị trường chứng khoán thường “ưa thích” cổ phiếu của Wal-Mart hơn vì tổn phí điều hành thấp. Phố Wall thích Wal-Mart cho dù với chủ trương giảm tổn phí tối đa, tập đoàn Wal-Mart từ lâu đã không có thành tích tốt đẹp mấy về đối xử với nhân sự, về sự đóng góp từ thiện vào những sinh hoạt lành mạnh của cộng đồng địa phương cũng như tập đoàn này đã “bỏ rơi” một địa phương sau khi đã thấy không còn bán được nhiều hàng.

Tạp chí BusinessWeek cho biết Wal-Mart trả lương nhân viên không cao và chỉ chịu chi tiền Bảo hiểm y tế cho ít hơn một nửa trong số 1, 2 triệu viên chức làm việc cho hãng. Trong số này 102.000 người làm việc cho Sams Club.

Các chuyên gia xã hội cho rằng càng có nhiều nhân viên tại địa phương nào làm việc cho Wal-Mart thì càng làm tăng gánh nặng cho xã hội địa phương đó. Lý do là do lương thấp (khoảng 9,64 USD/giờ tại Wal-Mart; 11,52 USD/giờ tại Sams Club) khiến viên chức không có khả năng mua sắm nhiều. Phần cơ quan góp cho quỹ hưu bổng của viên chức thấp cũng khiến về lâu về dài những công nhân về hưu sẽ gặp nhiều khó khăn trong sinh hoạt lúc về chiều. Những nhân viên không có Bảo hiểm y tế sẽ phải xin trợ cấp y tế của tiểu bang hoặc liên bang, trở nên gánh nặng cho chính quyền địa phương và gián tiếp trở thành gánh nặng cho công dân đóng thuế đầy đủ.
Trong khi đó, với mức lương nhàng nhàng 15.97 USD/giờ cộng với những phúc lộc cao hơn Wal-Mart/Sams Club nhiều, nhân viên làm việc tại Costco có khả năng tiêu thụ nhiều hơn. Nhân viên Costco cũng được đảm bảo y tế cao hơn, được đóng góp tiền hưu trí nhiều hơn khiến họ cảm thấy hài lòng hơn với công tác làm. Thêm vào đó 1/3 trong số 68.000 nhân viên Costco là thành viên nghiệp đoàn lao động Teamsters.

Tinh thần làm việc thoải mái, mức lương khá tạo sự an tâm cho nhân sự Costco và khiến họ tích cực cố thêm một chút nếu cần thiết nhằm bán cho đạt chỉ tiêu. Thêm nữa nhờ không chuyên bán giá rẻ, mà chủ trương bán những mặt hàng lạ, thay đổi đều đặn cộng thêm việc cung cấp những dịch vụ khác, Costco có khả năng vượt qua nhiều giai đoạn thử thách trong kinhd aonh tại độc nhất một thị trường mà không cần phải tính đến việc tìm “vùng đất màu mỡ hơn”.

Trả lương nhân sự cao có lợi cho tổ chức

Costco cho biết nhờ đối xử tốt với nhân sự hãng đã vượt qua mặt đối thủ Sams Club trong nhiều lĩnh vực. Quan yếu nhất là lòng trung thành. So với 21% số viên chức bỏ việc hàng năm tại Sams Club, Costco chỉ mất có 6%. Tổn phí tổn dành cho việc thường xuyên phỏng vấn và   đào tạo   khiến Wal-Mart và Sams Club phải mất khoảng 2.500 USD/nhân viên.

Nhờ hài lòng với công tác của mình, viên chức Costco chịu khó tìm mọi cách đạt chỉ tiêu. Họ thường vận dụng cách mời khách hàng dùng thử những món ăn mới được bán tại Costco hoặc hạ giá sản phẩm mới trong dịp nào đó. Lâu ngày nhân viên Costco chứng tỏ họ có khả năng bán nhiều hàng hơn nhân sự Sams Club. Tính làng nhàng Costco bán được 795 USD cho mỗi m2 diện tích so với con số 516 USD của Sams Club hoặc con số 411 USD của đơn vị đối thủ khác là BJs Wholesale Club Inc.

Dĩ nhiên ban lãnh đạo Costco luôn phải nghĩ ra kế hoạch cạnh tranh mới như gói những món hàng lớn cỡ nào là vừa, sắp đặt sao cho khách hàng dễ tự lấy nhất để đỡ tốn công nhân viên và chọn bán mặt hàng nào để nhân tiện cho khách hàng nhất cùng lúc mang về lợi nhuận nhiều nhất cho doanh nghiệp.
Với những bước đi tiên phong như bán thịt tươi, bán tân dược và cung cấp dịch vụ rửa hình ảnh trong môi trường kho hàng, Costco đã chứng tỏ khả năng sáng tạo của mình. Sự “hưởng ứng nhiệt liệt” của khách hàng khiến nhiều tổ chức khác phải bắt chước.

Bây giờ Costco được ngưồi tiêu thụ biết đến như là nơi bán những mặt hàng đắt tiền như nữ trang, đồ dùng điện tử và cả nhiều thứ rượu ngon thượng hạng khác. Bên cạnh đó, việc nghĩ ra những sáng kiến như trên nhằm qua mặt đối thủ không phải là điều dễ dàng nhưng đó là công việc cần thiết của các nhà quản trị giỏi. Việc giảm bớt lương và đối xử “không tốt” với viên chức cũng như việc bán hàng giá rẻ để cạnh tranh là điều quá dễ, ai cũng có thể làm được.

Giảm phí tổn tối đa để tăng lợi nhuận theo kiểm tra chưa hẳn đã tốt về lâu về dài. Thay vì hỏi rằng vì sao Costco không giảm tổn phí giống Wal-Mart thì có nhẽ các nhà đầu tư tại phố Wall và nhiều chuyên gia kinh tế cần đặt câu hỏi ngược lại: vì sao Wal-Mart và nhiều “đại gia” khác lại không đối xử tốt với viên chức như Costco? Có gì thiệt đâu mà sợ?

Quantri.Vn

Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2015

Cảnh giác với các chiêu lừa người lao động - Hr news

Cảnh giác với các chiêu lừa người cần lao

Đánh vào tâm lý của những sinh viên, người mới ra trường đang mong mỏi tìm kiếm việc làm, nhiều doanh nghiệp, cơ sở và trung tâm môi giới đã bày ra những chiêu trò khiến người lao động “tiền mất, tật mang”.



Giữa năm 2014, khá nhiều sinh viên mới ra trường đã được một tổ chức chuyên kinh doanh mặt hàng tiêu thụ ở TP.HCM dành cho trẻ em “chiêu dụ”. Cơ quan này đưa ra những ưu đãi hết sức cho người cần lao phê chuẩn các tin tuyển dụng như: cơ hội lớn cho sinh viên mới ra trường, lương chính thức rất cao, được thăng chức nếu có trình bày tốt, được tham gia các khóa đào tạo trong và ngoài nước.

Rất nhiều sinh viên mới ra trường đã hồ hởi tham gia ứng tuyển vào những vị trí của cơ quan. Bên cạnh đó, điều kiện phía đơn vị đưa ra khá ngặt nghèo: thử việc 6 tháng, và thời kì thử việc sẽ phụ trách những vị trí rất thấp như bán hàng, sale… với mức lương “hẻo”, chủ yếu là để học việc, tìm hiểu. Chỉ khi nào qua được giai đoạn thử thách này thì mới được hưởng nhiều ưu đãi và lương rất cao.

Đang cần việc, nhiều sinh viên mới ra trường đã chấp thuận vị trí và mức lương nói trên. Tuy nhiên, kết quả là hồ hết những người được nhận việc bị sa thải trước 6 tháng với lý do “không hoàn thành công việc”, rồi lại đến đợt tuyển dụng mới. Cứ thế, công ty nói trên vừa sử dụng cần lao với giá cực rẻ lại lách được các chế độ bắt buộc như BHYT, hợp đồng cần lao… Cho đến nay, công ty nói trên vẫn đăng tuyển dụng hàng loạt và khá nhiều người lao động thiếu thông báo vẫn mắc lừa.

Một trường hợp khác mà sinh viên kiếm việc làm thêm, mới ra trường thường gặp, đó là bị lừa “đặt cọc tiền” trước khi nhận vào làm. Như trường hợp của Hoàng, sinh viên năm cuối Đại học Hồng Bàng, TP.HCM. Hoàng được một tổ chức kinh doanh mỹ phẩm nhận vào chân giao hàng, công việc an nhàn, lương cao. Chỉ có điều là trước khi làm phải đặt cọc gần 2 triệu đồng.

Ngoại giả, khi Hoàng làm được một tháng thì xin mất việc vì lượng hàng giao quá dày đặc khiến Hoàng không bảo đảm việc học. Lúc này, Hoàng xin lại số tiền đặt cọc thì doanh nghiệp trở mặt, bảo số tiền nói trên không chỉ là tiền cọc mà là khoản tiền sẽ mất nếu người cần lao bỏ việc nửa chừng. Chiêu bài lừa tiền đặt cọc được khá nhiều doanh nghiệp sử dụng, nếu người lao động sau khi làm một thời kì ngắn tự xin nghỉ việc thì doanh nghiệp giáo giở, chiếm số tiền đặt cọc…

Rõ ràng các công ty nói trên đã có hành vi vi phạm pháp luật nhưng có chiêu “lách luật” kín kẽ, tinh vi nên hầu như người cần lao bị lừa chỉ thầm lặng rút kinh nghiệm chứ không đi tố giác vì nghĩ là chuyện nhỏ. Chính vì thế, các cơ quan này mới có cơ hội lừa người lao động lâu dài mà không bị pháp luật “sờ” đến.

Thành ra, người lao động nên khôn xiết cẩn trọng khi xin việc, đặc biệt với những nơi có đóng phí tổn, xem kĩ các điều khoản ràng buộc và nhất là không nên tin vào các “hứa hẹn hứa trên trời” của các tổ chức. Bên cạnh đó, khi tuyển lựa một nơi để xin việc cũng cần tìm hiểu kĩ thông tin từ phía người quen và trên mạng xã hội…

Theo Báo pháp luật VN

Trả lương cao cho nhân viên, đơn vị được hay mất?

Không phải đến lúc nền kinh tế gặp khó khăn công ty mới tìm cách cắt giảm lương nhân sự, mà đây là “cuộc đấu” muôn thuở từ xưa đến nay giữa doanh nghiệp và người cần lao.

Trong đó tổ chức thì muốn trả mức lương thấp nhất có thể, ngược lại sức lao động luôn muốn hưởng mức lương cao nhất từ tổ chức. Nếu họ không tìm được điểm chung, hoặc không thể làm cho đôi bên cùng có lợi thì vững chắc sẽ không có sự hiệp tác lâu dài. Nhưng nếu tổ chức biết quan hoài nhiều hơn đến quyền lợi viên chức, thì điều gì sẽ xảy ra, họ sẽ được hay mất khi phải hy sinh bớt lợi quyền của mình?



Để không còn những nỗi lo cơm áo gạo tiền

Khi được hỏi lý tại sao ngân hàng lại trả lương cao cho viên chức, một vị lãnh đạo đã trả lời rằng: “những người làm việc trong ngân hàng là những người thường xuyên tiếp xúc với tiền nong, nếu lương không đủ cho họ sống, thì sẳn tiền trước mắt dại gì mà họ không lấy…” tất nhiên đây là một câu giải đáp hài hước của vị lãnh đạo vui tính. Nhưng đằng sau tiếng cười ấy, cũng có nhiều điều đáng để cho ta nghĩ suy.

Một người không thể toàn tâm toàn ý cho công tác nếu như suốt ngày trong đầu chỉ quẩn quanh nỗi lo cơm áo gạo tiền, một người chẳng thể vừa làm tốt công tác này vừa bươn chải công việc khác để kiếm thêm thu nhập. Một người không thể toàn tâm toàn ý với cơ quan khi có thời kì rãnh là họ mon men vào các trang tìm việc để tìm cơ hội mới, đó chính là những mất mát mà đơn vị cứ tưởng rằng mình được khi trả lương thấp cho nhân sự.

Trái lại một người được hưởng mức lương xứng đáng, họ sẽ làm việc với tinh thần thoải mái, lúc này nỗi lo lớn nhất của họ không phải là cơm áo gạo tiền, mà chính là làm cách nào để tạo nên hiệu quả tối đa cho công tác, để ngày càng thăng tiến. Đây không chỉ là cái lợi của viên chức, mà sâu xa hơn đây chính là cái lợi to lớn mà doanh nghiệp nhận được khi sở hữu trong tay một đội ngũ nhân sự luôn cố gắng làm việc hết mình.

Không nên vì lợi ích trước mắt

Có nhiều người sau một quá trình làm việc họ nhận ra rằng công sức họ bỏ ra không được đền đáp xứng đáng, và họ đề nghị tăng lương. Đáp lại lời đề nghị của họ không ít công ty cho rằng không bác ái viên này thì nhân ái viên khác, xã hội này vô thiên lủng người đang cần việc…điều ấy không sai. Tuy nhiên đây thật sự là một sự sai trái của tổ chức bởi vì xã hội cũng đâu vô thiên lủng tổ chức đang cần tuyển viên chức mới.

Có một thật tế hiện thời cho thấy, thay vì cố gắng giữ lại những người có năng lực làm việc lâu dài, tạo thành một hàng ngũ chuyên nghiệp, thì họ lại đi chú trọng vào việc tuyển người mới. Họ vừa mất công vừa mất của vì suốt ngày phải đào tạo lại viên chức mới, đến lúc nhân viên làm được việc thì họ lại rời đi vì mức lương không đủ để giữ chân họ lại. Cứ như vậy doanh nghiệp vô tình trở thành trường tập huấn có trả lương cho nhân sự, đây là một thật tế vẫn đang tồn tại mà không ít đơn vị đang gặp phải.

Công việc là một mối quan hệ cộng sinh, người lao động không thể có kiếm việc nếu như không có tổ chức. Ngược lại một một đơn vị không thể tồn tại nếu thiếu hàng ngũ nhân sự. Để duy trì được mối cộng tác này không ai khác chính tổ chức phải là người cố gắng căn bằng lợi ích giữa mình và người cần lao, phải quan tâm hơn đến đời sống đội ngũ nhân sự, từ đó giúp cho họ có động lực phấn đấu, góp phần vào sự phát triển chung của công ty.

Đơn vị được nhiều hơn mất

Trả lương cao cho nhân viên không có tức thị đánh đồng tất cả, mà tùy thuộc vào năng lực của mỗi người. Trả lương cao không có tức thị cơ quan phải chịu thiệt, mà đơn giản là họ chỉ hy sinh bớt lợi ích của mình để nhân sự có cuộc sống ổn định hơn. Từ đó tạo tiền đề vững chắc cho người cần lao yên tâm công tác, điều đó không chỉ biểu thị sự nhìn xa trông rộng mà còn biểu đạt tính nhân văn sâu sắc của các nhà lãnh đạo.

Hơn nữa kinh doanh cũng như một canh bạc, lúc thắng lúc thua. Bạn không thể giữ chân viên chức của mình lúc khó khăn giả dụ trong giai đoạn thuận lợi bạn quá “keo kiệt” với họ. Nhưng trái lại lúc ăn nên làm ra bạn biết chia sẽ với mọi người, thì những lúc thất bại chính họ sẽ là những người bạn đồng hành tuyệt vời đáng tin cậy. Đó là cái được lớn nhất của doanh nghiệp khi biết thăng bằng ích lợi cá nhân với lợi ích của tập thể, một việc làm đôi bên cùng có lợi.

Nguồn: Careerlink.Vn

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Đào tạo nhân viên làm việc chủ động, dễ mà khó - Human Capital

Tập huấn viên chức làm việc chủ động, dễ mà khó

Trong quá trình   tập huấn   và tư vấn cho lãnh đạo các công ty, tôi thường được nghe 2 câu hỏi:

- Làm thế nào để nhân viên chủ động hơn trong công tác?

- Làm thế nào để phòng ban   viên chức   không kiểm tra sai người?

Đây có lẽ là thắc mắc chung của các lãnh đạo, các chủ cơ quan. Xét thấy tầm quan yếu của vấn đề, vì thế tôi xin san sớt với bạn đọc về các giải pháp của mình cho các vấn đề nói trên. Trong phạm vi bài viết này, tôi xin miêu tả một cách tổng quát về phương pháp xây dưng một hàng ngũ nhân viên làm việc chủ động. Nội dung chi tiết cho từng vấn đề tôi sẽ diễn tả trong những bài viết riêng.

Về mặt nguyên tắc, để giải quyết vấn đề này, chúng ta sẽ thực hành qua các bước như sau:

- Bước thứ nhất: kiến lập tinh thần làm việc chủ động cho mỗi cá nhân? Vì tập thể là tập hợp của những cá nhân. Ta chỉ có thể có một tập thể làm việc chủ động khi từng thành viên trong đó là những người làm việc chủ động. Do vậy để giải quyết vấn đề về một đội ngũ làm việc chủ động thì trước hết ta cần phải giải quyết vấn đề về sự chủ động trong công viêc của mỗi cá nhân.

Để tìm ra giải pháp cho vấn đề này, Chúng ta cần phải làm rõ các vấn đề sau:

- Thế nào là chủ động trong công tác?

- Căn nguyên vì sao người cần lao không chủ động trong công tác?

- Giải pháp khắc phục?

Trước hết chúng ta hãy làm rõ thế nào là chủ động trong công việc?

Một nhân viên làm việc chủ động là một người:

- Chủ động tìm việc, chủ động đề nghị công tác trong phạm vi trách nhiệm của mình, không chờ cấp trên sai bảo.

- Chủ động   tìm kiếm   và phát hịện các vấn đề, các rủi ro đang hiện hữu hoặc có thể xảy ra trong mai sau

- Chủ động đồ mưu hoạch giải quyết vấn đề (bao gồm: xác định các rào cản, duyên cớ,.. Và biện pháp thực thi)

- Chủ động thực thi giải pháp

- Chủ động kiểm tra, kiểm tra và phản biện vấn đề

- Chủ động mở rộng vấn đề

Căn nguyên của việc người cần lao không chủ động trong công tác?

Gồm 3 lý do chính là:

1 Không có trách nhiệm đối với bản thân (đem cuộc đời mình giao phó cho hòan cảnh, cho người khác, không nhận bổn phận làm cho những điều mình mong muốn trở thành hiện thực)

2 Tâm lý người đi làm thuê.

3 Thiếu lòng tự trọng

Vậy để khắc phục vấn đề này ta cần phải giúp cho người lao động những điều sau:

1 Có bổn phận với bản thân

2 Có ý thức làm chủ trong công việc

3 Có lòng tự trọng cao

Nhiệm vụ này được thực hành phê chuẩn các chương trình huấn luyện. Để có thể đạt mục tiêu nói tren thì các chương trình huấn luyện cần phải được thiết kế sao cho khi tham dự:

- Học viên phải tự mình giải quyết và khám phá vấn đề

- Học viên buộc phải vận động trí óc để giải quyết ván đề

- Học viên phải tự mình giải tỏa các thắc mắc của bản thân, không ỷ lại vào giảng sư

Với những yêu cầu như vậy về chương trình thì không phải bất cứ học viên nào khi tham gia cũng đạt được kết quả, mà kết quả chỉ đạt được khi học viên tham dự khóa học đạt được các điều kiện sau:

- Có nhu cầu phát triển bản thân

- Có ý thức học hỏi cầu tiến

- Tự nguyện tham gia các khóa học

- Nhận bổn phận giải quyết các vấn đề của bản thân

- Chấp nhân làm việc một cách chủ động theo yêu cầu của lớp học

- Chấp thuận và tuân thủ các quy định củakhóa học cùng với sự hýớng dẫn của giảngviên

Bước này được xem là hòan thành khi ta xây dựng xong chương trình đào tạo giúp đạt được các mục đích nói trên.

- Bước thứ hai: Thu hút,   tuyển dụng   , giữ chân những nhân sự đã có ý thức làm việc chủ động và vỡ hoang, phát huy ý thức đó của họ.

Giải quyết vấn đề về sự chủ động trong công việc của nhân sự là một vịệc, còn có giữ được họ ở lại làm việc với tổ chức và có khai hoang, phát huy được tinh thần chủ động trong công tác của họ hay không lại là một chuyện khác. Vì thế, bước kế tiếp là phải giải quyết vấn đề này. Rất nhiều lãnh đạo cơ quan không dám phát triển nhân sự vì sợ họ sẽ đi nơi khác, cũng chỉ vì công việc giữ chân viên chức này yếu kém.

Đây chính là phần việc của người lãnh đạo tổ chức, có thể là: chủ tổ chức, chủ toạ HĐQT hoặc Giám đốc/tổng giám đốc đơn vị tùy theo từng trường hợp mà trong đó quyền lực tối cao thuộc về vị trí nào.

.Có rất nhièu nhà lãnh đạo nghĩ suy một cách sai lầm rằng: công việc   tuyển dụng   , thu hút, giữ chân, khai hoang và phát huy năng lực của những nhân sự làm việc xuất sắc là công việc của bộ phanạ viên chức chứ không dính líu gì đến mình. Đây thật sự là một suy nghĩ khôn xiết sai lầm. Bởi vì tòan bộ các công việc trên đều thực sự là nhiệm vụ của người lãnh đạo chứ không phải thuần túy của bộ phận nhân viên.

Tất nhiên ngườii lãnh đạo không thực hành nhệm vụ nói trên của mình một cách trực tiếp với từng viên chức, mà người lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ đó của mình một cách gián tiếp chuẩn y một hệ thống trung gian là môi trường làm việc. Người nhân viên luôn luôn làm việc trong một môi trường làm việc xác định và chịu sự ảnh hưởng từ môi trường đó. Chính chất l;ựong của môi trường này sẽ quyết định chất lựong của công tác tuyển dụng, thu hút, giữ chân, vỡ hoang và phát huy năng lực của những nhân sự làm việc xuất sắc .

Chất lượng của môi trường làm việc lại hòan tòan phụ thuộc vào người lãnh đạo vá cũng chỉ phụ thuộc vào người lãnh đạo mà thôi. Bởi vì dù có ý thức hay sơ ý thức, dù có nhận bổn phận hay không nhân trách nhiệm thì người lãnh đạo vẫn là người kiến tạo, tương tác và đính hướng cho sự phát triển môi trường làm việc của cơ quan.

Bởi thế năng lực của người lãnh đạo là điều kiện tiên quyết trong công tác này. Để có thể làm tốt công tác này, đòi hỏi người lãnh đạo cần phải đáp ứng được các đề nghị về cá nhân như sau:

- Có Hoài bão, lý týởng

- Có tầm nhìn xa

- Có giá trị sống thích hợp

- Có trách nhiệm với bản thân

- Có lòng tự trọng

- Quản lý được cái TÔI của bản thân

- Hiểu mình – hiểu ngýời

- Hiểu doanh nghiệp và ðội ngũ nhân sự của mình

- Thấu hiểu môi trýờng kinh doanh

- Thấu hiểu ðối thủ cạnh tranh ðối tác và khách hàng

- Khả nãng truyền cảm hứng

- Khả nãng ðào tạo và tập huấn

- Khả nãng phát triển bản thân cao

- …

Vì thế các công tác cần phải giải quyết trong bước này là:

1 đánh giá, kiểm tra và hoàn thiện hõn cácnãng lực cá nhân cho lãnh đạo

2 kiểm tra, kiểm tra và hoàn thiện bản tuyên ngôn sứ mạng của tổ chức.

3 đánh giá, đánh giá và hoàn thiện hõn nữa hệthống nhận dạng thýõng hiệu

4 kiểm tra, ðánh giá và hoàn thiện hõn hệthống doanh nghiệp công tác (các quy trình, bản miêu tả công việc)

5 kiểm tra, kiểm tra và hoàn thiện hõn chínhsách ðãi ngộ

Chỉ sau khi bước thứ hai đã được hòan thành chúng ta mới có thể chuyển sang bước thứ 3.

- Bước thứ ba: Xây dựng tập thể người lao động của doanh nghiệp thành một hàng ngũ viên chức làm việc chủ động.

Để thực hiên bứớc này chúng ta chỉ cần làm một đôi thao tác đơn giản như sau:

1 kiểm tra, phân loại nhân sự thành hai nhóm:

- Nhóm 1 những người có khả năng đào tạo và đổi thay cao theo hướng tích cực, dễ trở thành những người làm việc chủ động.

- Nhóm 2 những người khó có khả năng đào tạo và thay đổi cao theo hướng hăng hái, khó trở nên những người làm việc chủ động

2 triển khai việc giáo dục thái độ làm việc chủ động cho các viên chức ở nhóm 1 theo biện pháp đã đề ra ở bước 1

3 lập mưu họach và tiến hành thực hành việc sa thải đối với những nhân viên ở nhóm 2

4 Lên kế hoạch tuyển dụng và giáo dục thái độ làm việc chủ động cho các nhân sự mới.

5 Hòan tất chương trình

Quantri.Vn

Sưu tầm:  cách tìm việc làm thêm tại nhà

Thiếu hụt người tài - Mối nguy to nhất trong ngành quản trị nhân viên năm 2012 - Hrm Blog

Thiếu hụt nhân tài - Mối nguy lớn nhất trong ngành quản lý   nhân viên   năm 2012

Theo kết quả phân tách "Những nhân tố thúc đẩy đến nhân viên" của Lloyd (một tổ chức chuyên về nghiên cứu và quản trị rủi ro) năm 2011 đã xếp "sự thiếu hụt về tuấn kiệt và kỹ năng của nhân sự" là mối nguy đứng thứ 2 chỉ sau "mất khách hàng".

Kết quả này có được sau khi khảo sát 500 C-suite (nhóm những cá nhân có chức danh là Cheif) và nhóm những nhân viên điều hành và cũng khá nghiêm trọng khi nghiên cứu này cũng nhận định "Dù đây là rủi ro khá lớn, không còn là tiềm ẩn, nhưng có vẻ như các tổ chức hầu như không quan tâm đến nó và chưa chuẩn bị đủ năng lực để giải quyết hoặc ứng phó với nó".

Một kết quả khá thú vị nữa là trong 100 tổ chức to nhất thế giới về sử dụng nguồn nhân lực thì chỉ có 1 doanh nghiệp có chức danh giám đốc quản lý rủi ro.

Quay lại tình hình nhân sự của Việt Nam, ngày nay hầu như rất ít tổ chức có hệ thống quản lý tuấn kiệt (Talent Managment). Dù đây là đề tài được đề cập khá nhiều trên công cụ truyền thông đại chúng nhưng các cơ quan Việt nam rất lạnh lùng và hầu như chơi có chiến lược phát triển anh tài.

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra anh tài là gì? Theo tôi viên chức nhân tài là nhân sự hội đủ 3 nhân tố: kiến thức + Thái độ + Kỹ năng và 3 nguyên tố này thích hợp với hoạt động ngày nay của doanh nghiệp và định hướng của công ty trong tương lai. Như vậy với góc nhìn này, "nhân kiệt" rộng hơn rất nhiều.

Về kế hoạch phát triển "anh tài" trong công ty, cần trải qua các bước sau:

1. Xác định ai là anh tài.

Việc xác định ai là anh tài phải theo định hướng gắn với công tác và nhu cầu của cơ quan. Chẳng thể so sánh giữa cá nhân này với cá nhân khác mà phải so sánh cá nhân đó với công tác ngày nay hoặc ngày mai.

2. Xác định cá nhân này sẽ phát triển như thế nào trong ngày nay và ngày mai.

Xây dựng một bức tranh tổng thể về định hướng khi những thiên tài được xác định tại bước 1 tham gia vào chương trình.

3. Truyền thông để cá nhân hiểu và theo đuổi chương trình

Hiện có nhiều quan điểm trái chiều về việc nên cho ứng cử viên biết hay không về nội dung chương trình. Theo tôi nên truyền thông cho viên chức biết việc họ đang được tham gia trong chương trình phát triển thiên tài của đơn vị, vạch được hướng đi rõ ràng cho họ nhằm giúp họ có định hướng tốt hơn và hăng hái với chương trình hơn.

4. Các cam kết và ràng buộc khi tham gia chương trình.

Xây dựng chương trình cần buộc ràng ứng cử viên. Việc ràng buộc này nhằm bảo vệ cho cả người tìm việc và tổ chức. Các khoản đầu tư lớn của đơn vị phải được đầu tư đúng và tránh lãng tổn phí. Trong trường hợp ứng cử viên tham dự chương trình bỏ ngang hoặc vi phạm sẽ phải bồi thường những phí tổn như đã cam kết.

5. Đầu tư cho   huấn luyện   và dám giao nhiệm vụ.

Nội dung của chương trình phát triển người tài tập hợp vào phát triển năng lực và thể nghiệm. Các chương trình huấn luyện cần xác định rõ phải phù hợp với ứng viên và nhu cầu của doanh nghiệp. Ngoài ra, cho phép hoặc trao quyền cho các ứng cử viên này thử nghiệm trong những công tác hoặc vị trí thử thách. Chỉ có trong thách thức mới xác định đâu là tuấn kiệt thật sự.
 
6. Kiểm tra, tổng kết và tái xác định mục đích.

Cần có đánh giá liên tục trong quá trình phát triển nhân kiệt nhằm có những điều chỉnh kịp thời. Các điều chỉnh về chương trình cần phải được truyền thông cho ứng viên và các công ty thúc đẩy biết để kết hợp thực hiện.

Quản trị anh tài là định nghĩa rất rộng và có rất nhiều cách hiểu khác nhau, phương cách áp dụng cũng cần uyển chuyển trong từng thuộc tính công việc, đặc thù văn hóa doanh nghiệp thì mới phát huy được hiệu quả. Tuy nhiên, kiên tâm đi đến cùng của lãnh đạo cũng là yếu tố chẳng thể thiếu cho sự thành công của chương trình quản trị nhân tài.

Dũng Nguyễn - QuantriNhansu.Com.Vn

Sưu tầm:  đề tài mẫu quy trình nghỉ việc